SengNewsSengNews

Mối quan hệ gia đình bền chặt của Việt Nam có thể xoa dịu nỗi đau chăm sóc người cao tuổi: các chuyên gia

Trong khi Nhật Bản phải mất 24 năm và Đức phải mất gần nửa thế kỷ để dân số già tăng từ 7% lên 14% thì Việt Nam đạt đến mức đó chỉ sau khoảng 13 năm.

Vào năm 2024, quốc gia này có 14,2 triệu người từ 60 tuổi trở lên, chiếm 14% dân số và dự kiến ​​sẽ trở thành một xã hội "già " vào năm 2036.

Tỷ lệ sinh giảm đang đẩy nhanh xu hướng này. Tỷ lệ sinh của cả nước chỉ là 1,67 trẻ trên một phụ nữ, nhưng giảm xuống còn 1,39 ở Thành phố Hồ Chí Minh, gần bằng 1,35 của Đức và 1,2 của Nhật Bản.

"Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ già đi trước khi giàu có, tạo ra áp lực chưa từng có đối với hệ thống phúc lợi xã hội, chăm sóc sức khỏe và lực lượng lao động," Gnadt, người đã nghiên cứu nhiều tháng ở Việt Nam, cho biết.

Ông cho biết các gia đình Việt Nam đang thay đổi nhanh chóng do hiện đại hóa. Ông cho biết, cấu trúc gia đình đang co lại và các thế hệ ngày càng trở nên xa cách hơn, điều này đã làm suy yếu tập tục truyền thống về việc con cái chăm sóc cha mẹ.

Nhiều người thấy mình bị mắc kẹt giữa việc chăm sóc cha mẹ già và việc nuôi dạy con cái của mình, khiến họ phải tìm kiếm các lựa chọn thay thế như thuê người chăm sóc và gửi cha mẹ đến viện dưỡng lão.

Một hiện tượng được gọi là "đô thị hóa theo chiều dọc ", trong đó người già sống trong những căn hộ cao tầng chật chội, tách biệt khỏi cộng đồng của họ, đang khiến nhiều người cảm thấy cô đơn và bị bỏ rơi, ông nhận xét. "Cuộc khủng hoảng chăm sóc ngày càng trở nên rõ ràng. "

Trong dự án chuyển giao công nghệ và đào tạo lực lượng lao động cho các viện dưỡng lão ở Hà Nội, Takanori Hisaoka, giám đốc điều hành của Tổ chức Phúc lợi Xã hội Kiramekikai (Nhật Bản), cũng đề cập đến hai thách thức lớn mà Việt Nam phải đối mặt: già hóa trước khi trở nên giàu có và sự suy yếu của mối quan hệ chăm sóc giữa các thế hệ.

"Việt Nam đang đi theo con đường giống như Nhật Bản đã từng đi, nhưng với tốc độ nhanh hơn và với ít nguồn lực hơn " Hisaoka, người có nhiều nguồn lực hơn hơn 20 năm kinh nghiệm chăm sóc người già cho biết. Kết quả là mạng lưới chăm sóc người cao tuổi của Việt Nam vẫn còn thiếu.

Sự phối hợp giữa các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và chăm sóc dài hạn còn rời rạc và các dịch vụ chuyên biệt như chăm sóc chứng mất trí nhớ hầu như không tồn tại.

Tình hình còn phức tạp hơn do sự chênh lệch về khả năng tiếp cận giữa khu vực thành thị và nông thôn cũng như giữa giàu và nghèo, trong khi lực lượng chăm sóc vẫn còn thiếu và chưa được đào tạo bài bản, ông nói.

Tuy nhiên, cả hai chuyên gia đều nhìn thấy mặt tích cực trong các giá trị văn hóa của Việt Nam. Gnadt lưu ý: "Việt Nam vẫn nắm giữ những gì mà nhiều nước phát triển đã đánh mất: sự gắn kết cộng đồng, sự hỗ trợ của khu vực lân cận và sự chăm sóc tự nhiên giữa các thế hệ". "Nếu được sử dụng đúng cách, những điều này có thể tạo thành nền tảng của một hệ thống chăm sóc nhân đạo sâu sắc, chi phí thấp và hiệu quả. "

Lấy cảm hứng từ tinh thần cộng đồng này, Đức đã phát triển mô hình "lão hóa tại chỗ ", cho phép người cao tuổi ở trong nhà của họ càng lâu càng tốt. Khoảng 80% người cao tuổi ở Đức được chăm sóc tại nhà bởi những người chăm sóc chuyên nghiệp.

Theo Gnadt, Việt Nam nên hành động trên hai mặt trận: duy trì dịch vụ chăm sóc tại gia đình đồng thời chuyên nghiệp hóa hệ thống hỗ trợ tại nhà, điều dưỡng cộng đồng và bảo hiểm.

Các thành phố cũng cần cải thiện cơ sở hạ tầng để thân thiện hơn với người già. Rút kinh nghiệm từ sự phụ thuộc hiện nay của Đức vào những người chăm sóc nước ngoài, ông cho rằng Việt Nam nên đầu tư sớm vào đào tạo điều dưỡng viên.

"Nếu Việt Nam sớm đầu tư vào đào tạo và điều kiện làm việc tốt hơn cho những điều dưỡng viên thì sẽ thích ứng thành công với tình trạng già hóa dân số. "

Hisaoka cũng tin rằng truyền thống hiếu thảo và tình cảm gia đình của Việt Nam là chìa khóa và đề xuất ba mô hình từ Nhật Bản có thể phù hợp với Việt Nam.

Mô hình đầu tiên là các trung tâm chăm sóc cộng đồng đa chức năng, quy mô nhỏ kết hợp cả ngày dịch vụ, thời gian lưu trú ngắn ngày và chăm sóc tại nhà trong khu vực lân cận. Cách tiếp cận này giúp người cao tuổi duy trì thói quen quen thuộc và giảm chi phí vận hành mà vẫn đảm bảo chất lượng.

Thay vì xây dựng các cơ sở lớn, mô hình này giảm thiểu chi phí nhưng vẫn đảm bảo chất lượng cuộc sống và cho phép các thành viên trong gia đình tiếp tục làm việc.

Ở Nhật Bản, mô hình này phổ biến ở các khu dân cư và ở Việt Nam, nơi mối quan hệ láng giềng vẫn bền chặt, mô hình này có thể dễ dàng thích nghi, Hisaoka cho biết. "Các gia đình vẫn là người chăm sóc chính; họ chỉ cần kích hoạt các dịch vụ ban ngày hoặc dịch vụ lưu trú ngắn ngày khi cần. "

Mô hình thứ hai là "nhà tập thể " sắp xếp cuộc sống chung cho 6 đến 10 cư dân được thiết kế giống như môi trường gia đình, đặc biệt hiệu quả đối với những người mắc chứng mất trí nhớ.

Mô hình thứ ba là "hỗ trợ sống độc lập " nhắm đến những người cao tuổi giàu có hơn sống trong các căn hộ riêng được trang bị hệ thống giám sát y tế, dinh dưỡng và chăm sóc 24/7

Gnadt cho biết Việt Nam phải tuân theo chiến lược kép bằng cách đa dạng hóa các cơ sở chăm sóc trong thời gian ngắn và củng cố hệ thống hỗ trợ gia đình, đồng thời khuyến khích các cặp vợ chồng sinh hai con trong thời gian dài. "Chăm sóc người cao tuổi là một thử thách về quản trị xã hội.

"Nếu Việt Nam đầu tư sớm vào cơ sở hạ tầng, đào tạo và hỗ trợ gia đình, già hóa có thể trở thành cơ hội để cải thiện chất lượng cuộc sống và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thay vì trở thành gánh nặng. "

Không đăng lại mà không được phép:SengNews » Mối quan hệ gia đình bền chặt của Việt Nam có thể xoa dịu nỗi đau chăm sóc người cao tuổi: các chuyên gia